Theo những người dân nuôi thả cá lòng tại lòng hồ thủy điện Bản Vẽ ở đây cho biết, ngoài việc chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm trên bờ, người dân ở đây nuôi cá lồng mỗi năm thu lời 40 đến 50 triệu đồng.
Hồ thủy điện Ngàn Trươi thuộc tỉnh Hà Tĩnh có diện tích mặt nước lớn thứ 3 so với cả nước. Tháng 10/2020, HTX Dịch vụ nông lâm thủy sản Vũ Quang thả lứa cá giống đầu tiên vào 14 lồng bè được đặt trong lòng hồ Ngàn Trươi. Đây là mô hình thí điểm nuôi cá lồng trong lòng hồ Ngàn Trươi do UBND huyện Vũ Quang triển khai với tổng đầu tư hơn 1,3 tỷ đồng, trong đó huyện hỗ trợ gần 300 triệu đồng.
Anh Nguyễn Xuân Hiệu (xã Hương Minh) đã tận dụng mặt nước đập Khe Thuộc, xã Hương Minh, đầu tư hơn 200 triệu làm 6 lồng nuôi cá leo, cá trắm (3 lồng cá leo, 3 lồng cá trắm). Nhờ được tư vấn, hướng dẫn kỹ thuật tốt, đặc biệt là nguồn nước hồ luôn đảm bảo sạch, không bị ô nhiễm nên cá phát triển khá nhanh. Sau 6 - 8 tháng, các loại cá leo, cá trắm đã bắt đầu cho thu hoạch.
“1 lồng cá có thể tích 140 m3 thả nuôi khoảng 500 con cá trắm giống hoặc 1.000 – 1.200 con cá leo giống. Sau 6 - 8 tháng nuôi, mỗi con đạt trọng lượng khoảng 1,5 – 2 kg. Trừ chi phí thức ăn, nhân công, tính ra mỗi lồng bè cho lợi nhuận 20 - 25 triệu đồng” – anh Hiệu cho biết.
Ứng dụng công nghệ trong nuôi trồng thủy sản
Ông Trần Xuân Quang, Trưởng Phòng NTTS, Chi cục Thuỷ sản Nghệ An cho biết, cần khuyến khích các tổ chức, cá nhân nâng cao năng lực, đầu tư trang thiết bị và ứng dụng chuyển giao các công nghệ cao trong sản xuất giống, nhằm sản xuất các đối tượng có giá trị kinh tế cao, tăng trưởng nhanh, sạch bệnh và sức chống chịu tốt.
Tuyên truyền và hướng dẫn các tổ chức, cá nhân sản xuất, ương dưỡng giống chấp hành các quy định Nhà nước và trước khi bước vào vụ sản xuất tiến hành cải tạo vệ sinh trại đảm bảo theo đúng quy trình kỹ thuật; Tổ chức kiểm tra điều kiện và duy trì điều kiện các cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản trên trên địa bàn tỉnh. Tập trung chỉ đạo các tổ chức, cá nhân sản xuất, ương dưỡng đủ số lượng giống đảm bảo chất lượng theo đúng mùa vụ nuôi; Tăng cường quản lý, kiểm tra chất lượng giống thủy sản trong sản xuất, ương dưỡng và lưu thông trên địa bàn tỉnh; Quản lý thời gian sử dụng giống thủy sản bố mẹ đúng theo quy định; Thực hiện việc giám sát xuất khẩu, nhập khẩu, khảo nghiệm, kiểm định giống thủy sản, theo quy định của pháp luật.
Cũng theo ông Trần Xuân Quang, việc nuôi cá lồng trên sông, hồ đập mặt nước lớn có bước phát triển mạnh từ đối tượng nuôi đến công nghệ nuôi: Nhìn chung, việc ứng dụng công nghệ vào nuôi cá lồng trên sông, hồ đập mặt nước có những bước tiến triển tốt trước đây lồng nuôi chủ yếu là lồng truyền thống thì đến nay có khoảng trên 80% số lồng nuôi cải tiến (khung lồng bằng gỗ, nhựa PE, ống típ sắt và lưới), thể tích lồng nuôi tăng lên. Nhìn chung các lồng nuôi phát triển mới trong năm đều đầu tư lắp đặt theo công nghệ cải tiến, kích cỡ từ 50 - 100 m3 trở lên. Với sự quan tâm đầu tư của người dân và chính sách hỗ trợ của UBND tỉnh về xây dựng lồng mới, số lượng lồng tăng lên đáng kể, tập trung tại một số huyện như Quế Phong, Tương Dương, Anh Sơn, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Con Cuông. Số lượng lồng đưa vào nuôi trong năm 2020 đạt 1.217 lồng nuôi, tăng 270 lồng so năm 2019. Đáng chú ý đối tượng nuôi trước đây chủ yếu là cá truyền thống thì hiện nay đã phát triển nuôi các đối tượng có giá trị kinh tế cao khoảng 50% như cá lăng, leo, cá chép giòn, trắm giòn... cho hiệu quả cao.
Hiệu quả kinh tế từ việc tận dụng mặt nước của các lòng hồ thủy điện và hồ chứa thủy lợi đã rõ ràng, khi được đầu tư đúng mức, áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi và lựa chọn giống phù hợp với môi trường, người chăn nuôi thủy sản nước ngọt chắc chắn sẽ thu được hiệu quả kinh tế cao.